Đồng chí Nguyễn Lương
Bằng (với các bí danh: Anh Cả, Anh Cả Đỏ, Sao Đỏ - những tên gọi kính trọng mà
nhiều thế hệ chiến sĩ cộng sản dành tặng) là một nhà cách mạng chuyên nghiệp,
nổi tiếng của Đảng và Nhà nước ta; một mẫu mực về đạo đức cách mạng, tấm gương
trong sáng, luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng, phụng sự nhân
dân. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng từng giữ các chức vụ: Ủy viên dự khuyết Trung
ương, Ủy viên Trung ương, Ủy viên Thường vụ Trung ương, Tổng Thanh tra Chính
phủ, Phó Chủ tịch nước (1969 - 1979)...
Nguyễn Lương
Bằng sinh ngày 2/4/1904 tại thôn Đông, xã Đoàn Lâm (nay là xã Thanh Tùng, huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống
yêu nước. Lớn lên, Nguyễn Lương Bằng làm việc trên các tàu biển; đến năm 1925
thì sang làm cho một tàu binh Pháp, đậu ở Sa Diện, thuộc tô giới Pháp ở Quảng
Châu (Trung Quốc). Lúc này, tiếng bom của Phạm Hồng Thái ở Sa Diện nhằm giết
toàn quyền Đông Dương Merlin trong lúc đang ở Sa Diện làm thức tỉnh tâm hồn
Nguyễn Lương Bằng. Ông đã đi viếng mộ Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương.
Noi gương Phạm
Hồng Thái, ý nghĩ hoạt động cách mạng bắt đầu nảy nở trong người thanh niên yêu
nước Nguyễn Lương Bằng. Ít lâu sau, Nguyễn Lương Bằng gặp Hồ Tùng Mậu (đồng chí
Ích), một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp lúc ấy đang ở Quảng Châu. Thông
qua Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này
mang bí danh là Vương) tại Quảng Châu. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Lương Bằng
gặp Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12/1925, Nguyễn Lương Bằng tham gia lớp huấn luyện
chính trị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu và được kết nạp vào Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội).
Sau lớp huấn
luyện chính trị, Nguyễn Lương Bằng xin về nước hoạt động và tạm biệt Nguyễn Ái
Quốc vào khoảng tháng 9/1926. Nhiệm vụ chính của Nguyễn Lương Bằng lúc này là
tổ chức đường giao thông Hải Phòng - Hương Cảng (Hồng Công) để đưa thanh niên
trong nước ra nước ngoài học tập và chuyển tài liệu, sách báo từ nước ngoài vào
trong nước.
Về nước, Nguyễn
Lương Bằng hoạt động tại Hải Phòng. Một thời gian sau, ông xuống tàu Sông Bô
làm việc; tàu thường qua Hương Cảng và Quảng Châu. Làm việc trên tàu này, ông
đã chuyển nhiều sách, báo, tài liệu cách mạng về nước. Giữa năm 1929, Tổng bộ
Thanh niên điều động Nguyễn Lương Bằng sang Hương Cảng, giao cho ông công tác
liên lạc giữa Hương Cảng và Quảng Châu. Tại Hương Cảng, cuối năm 1929, Nguyễn
Lương Bằng được kết nạp vào một chi bộ của An Nam Cộng sản Đảng, lúc ấy hoạt
động tại Hương Cảng; cuối năm 1929, được tổ chức phân công đến công tác tại
Thượng Hải, làm hầu bàn tại một cửa hàng ăn uống và hoạt động bí mật tại đây.
Những ngày hoạt
động tại Thượng Hải, Nguyễn Lương Bằng đã cùng với một số người ra Báo Kèn gọi
lính, đồng thời, vận động công nhân Nhà máy Ốcxigien lập Hội Tương tế nhằm giúp
đỡ nhau trong hoạn nạn và hướng về Tổ quốc. Ông viết: “Từ các tổ chức của anh
em công nhân, tôi phát triển sang anh em bồi bếp, bà con buôn bán, rồi bắt mối
với trại lính khố đỏ, khố xanh và lính thủy. Từ tổ chức quần chúng, tôi tiến
lên xây dựng cơ sở đảng, nhờ đó, phong trào lên mạnh”.
Những ngày ở
Thượng Hải, Nguyễn Lương Bằng hoạt động rất hiệu quả và được gặp Nguyễn Ái
Quốc, khi Người đang dừng chân tại Thượng Hải, trên đường sang Liên Xô. Vào
khoảng tháng 8/1930, cũng tại Thượng Hải, Nguyễn Lương Bằng, một lần nữa được
gặp Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 5/1931,
tại Thượng Hải, Nguyễn Lương Bằng và Đỗ Ngọc Du (Phiếm Chu) bị mật thám Pháp
bắt, do sự phản bội của một người lính khố xanh được giác ngộ. Dù phải chịu cực
hình tra tấn của mật thám Pháp, nhưng ông nhất định không khai báo, nên các tổ
chức của ta ở Thượng Hải vẫn được an toàn. Sau khi đánh đập và hỏi cung mà
không khai thác được gì, nhà cầm quyền Pháp ở tô giới Thượng Hải đã giải
Nguyễn Lương Bằng và Đỗ Ngọc Du về nước, giam giữ tại một số nhà tù, trong đó
có nhà tù Hải Dương.
Tháng 6/1931,
tòa án thực dân tại Hải Dương xử Nguyễn Lương Bằng bản án phát lưu chung thân
và chuyển về giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Tháng 12/1932, Nguyễn Lương Bằng
cùng một số tù chính trị tổ chức vượt ngục thành công; trốn lên Vĩnh Yên, rồi
lại quay về huyện Thanh Miện (Hải Dương) tiếp tục hoạt động cách mạng. Cuối năm
1933, ông lại bị bắt trên đường đi công tác tại Bắc Giang. Đầu năm 1934, ông bị
chuyển đến giam tại nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) lần thứ hai; đến tháng 5/1935 bị đày
lên giam tại nhà tù Sơn La. Tháng 8/1943, tổ chức đảng trong nhà tù Sơn La bố
trí cho ông vượt ngục thành công, về ở ẩn và hoạt động tại làng Vạn Phúc, Hà
Đông. Tại đây, ông gặp đồng chí Hoàng Văn Thụ, khi đó là Ủy viên Ban Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
Vào thời điểm này, đồng chí Hoàng Văn Thụ được Đảng phân công
phụ trách công tác tài chính và công tác binh vận của Đảng; đồng thời, được
phân công hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, giữ chức Chủ nhiệm Tổng bộ. Sau
khi đồng chí Hoàng Văn Thụ bị nhà cầm quyền Pháp xử bắn vào tháng 8/1943, đồng
chí Nguyễn Lương Bằng được cử làm Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng, được
Đảng phân công phụ trách công tác tài chính và công tác vận động binh lính
địch, đồng thời được phân công hoạt động trong Mặt trận Việt Minh.
Hội nghị Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ họp từ ngày 15 - 20/4/1945,
tại nhà ông Ngô Văn Đông (Lý Đông), ở thôn Liễu Ngạn, xã Hoàng Vân, huyện Hiệp
Hòa, tỉnh Bắc Giang. Hội nghị quyết định việc bố trí quân sự trên phạm vi toàn
quốc, nhằm tiến tới tổng khởi nghĩa. Vì vậy, ý nghĩa của hội nghị mang tính
toàn quốc. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng tham dự hội nghị cùng Tổng Bí thư Trường
Chinh (chủ trì) và các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Văn Tiến Dũng,
Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Bạch Thành Phong, Cao Hồng Lãnh... Chuẩn bị
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được bổ sung vào Ủy
ban Dân tộc giải phóng, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 - 15/8/1945, tại Tân
Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng với tư cách
là Ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia hội nghị và phát biểu về cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn mới. Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội khai mạc tại
đình Tân Trào, huyện Sơn Dương. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng tham dự hội nghị với
tư cách Ủy viên Ủy ban Dân tộc giải phóng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức
vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước: Trưởng Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương,
Tổng giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền đầu tiên của Việt Nam tại Liên Xô, Tổng Thanh tra Chính phủ, Phó Chủ
tịch nước. Đồng chí qua đời ngày 20/7/1979, tại Hà Nội, thọ 75 tuổi.
Suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng
luôn là tấm gương đạo đức cách mạng mẫu mực, sáng ngời. Đạo đức cách mạng của
đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp,
không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên
trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải
học tập”. Nhiều năm được làm việc bên Bác, được Bác chỉ bảo tận tình, đồng thời
luôn phấn đấu, học tập và làm theo Bác, do vậy đồng chí Nguyễn Lương Bằng kế
thừa, học tập được rất nhiều điều từ tấm gương đạo đức ngời sáng của Bác Hồ,
suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí rất chú trọng đến
xây dựng Đảng, đặc biệt là dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng, xem đó là
phương châm công tác của mình. Đồng chí cho rằng, nếu không dựa vào quần chúng
để xây dựng Đảng, Đảng sẽ dẫn đến tình trạng “lỏng chân đứng”. Vì vậy, đồng chí
ra sức tổ chức, xây dựng các tổ chức, đoàn thể quần chúng, lấy đó làm bàn đạp
để xây dựng Đảng. Quan điểm của đồng chí là các tổ chức, đoàn thể quần chúng
lớn mạnh, phát triển rộng rãi thì Đảng cũng sẽ lớn mạnh, phát triển rộng rãi.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đồng thời cũng là sự nghiệp của Đảng,
khi kết hợp hai yếu tố đó sẽ tạo nên sức mạnh của Đảng.
Tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của đồng chí thể hiện ở
phẩm chất một nhà cách mạng bản lĩnh, liêm khiết, lăn lộn với phong trào cách
mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông đã đi vào lịch sử cách mạng
Việt Nam, thực sự là tấm gương sáng của chiến sĩ cộng sản bản lĩnh, kiên cường,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng phụng sự đất nước, chăm lo
hạnh phúc của nhân dân.
Theo nguồn: baocaobang.vn