Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp thế kỷ XX. Chiến thắng trở
thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam; để lại
nhiều bài học sâu sắc, hiện vẫn còn nguyên giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945, thực dân Pháp dã tâm dùng vũ lực hòng đặt lại ách thống trị trên đất nước
ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, chúng nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc
xâm lược lần thứ hai đối với Việt Nam; sau đó từng bước mở rộng chiến tranh,
chối bỏ mọi cố gắng cao nhất về ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Ngày 19/12/1946 với Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
anh dũng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Thực
hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quân và dân ta
đã lần lượt đánh bại các kế hoạch quân sự của thực dân Pháp, làm nên các chiến
thắng vang dội: Việt Bắc thu đông 1947, Biên giới 1950, tạo bước chuyển cơ bản
cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới - giai đoạn ta nắm quyền chủ động
chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, mở các cuộc tấn công và phản công
địch.
Tháng 5/1953, được sự ủng hộ
của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng Hăngri Nava, Tham mưu trưởng lục quân Pháp
thuộc khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) đóng ở Trung Âu làm Tổng chỉ huy quân viễn
chinh Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát, tìm hiểu thực tế chiến trường, Nava
đề ra một kế hoạch quân sự toàn diện (sau này được gọi là kế hoạch Nava), được
Chính phủ và Hội đồng quốc phòng Pháp thông qua ngày 24/7/1953.
Thực hiện kế hoạch này, Pháp
tăng viện quân viễn chinh, mở rộng khối quân cơ động, ráo riết bắt thanh niên
vào lính ngụy, phát triển phỉ vùng rừng núi. Mùa hè và mùa thu năm 1953, địch
mở hàng chục trận càn quét lớn nhỏ ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Bộ, đánh phá
ác liệt các căn cứ của ta; tháng 7/1953, chúng cho quân nhảy dù tập kích Lạng
Sơn; tháng 8/1953, chúng rút lực lượng ở Nà Sản về tăng cường ở đồng bằng Bắc
Bộ.
Giữa tháng 11/1953, bộ đội
chủ lực của ta thực hiện kế hoạch tiến lên Tây Bắc, một bộ phận tiến sang Trung
Lào phối hợp chiến đấu với Quân đội Pathet Lào. Trước tình hình đó, Nava buộc
phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ nhằm chặn bước tiến của quân ta. Kế
hoạch Nava bị đảo lộn, chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta. Chấp
nhận cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ, Nava tập trung mọi cố gắng, với sự giúp
đỡ rất lớn của Mỹ, xây dựng Điện Biên Phủ - vị trí có ý nghĩa chiến lược không
chỉ đối với Tây Bắc Việt Nam mà cả vùng Thượng Lào và Bắc Đông Dương thành một
tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “một
pháo đài bất khả xâm phạm”, gồm 49 cứ điểm, chia thành ba phân khu yểm hộ
lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững chắc. Địch đã cho tập trung ở đây hơn 16.200
quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh,
1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận
tải cơ giới, với ý đồ thách thức quân và dân ta, nghiền nát quân chủ lực của
ta.
Nhận rõ thủ đoạn của thực dân Pháp trong kế hoạch Nava, cuối
tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ
quân sự, phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch, ra nghị quyết thông
qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, giữ vững quyền chủ động đánh
địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả
nước và phối hợp trên toàn Đông Dương, nhấn mạnh phương châm chiến đấu: “tích
cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”.
Trên
cơ sở nắm chắc mọi âm mưu, hành động của địch, phân tích, đánh giá tình hình
một cách khoa học, đầu tháng 12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch
Điện Biên Phủ, thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy và giao cho Đại
tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư
lệnh quân đội trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chỉ huy trưởng mặt
trận. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do đồng
chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.
Với
ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy Trung
ương đã quyết định tập trung 04 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng
quân số trên 40.000 người. Chấp hành quyết định của Bộ Chính trị, mọi công việc
chuẩn bị cho chiến dịch được tiến hành khẩn trương. Cả nước đã tập trung sức
mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng,
xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. 261.451 dân
công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu
cần phục vụ chiến dịch.
Trận
quyết chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt:
Đợt
1: Từ ngày 13/3 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí, dũng cảm tiêu diệt gọn cứ
điểm Him Lam và Độc Lập, cứ điểm Bàn Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy
bay, xóa sổ 01 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; Pirốt, Tư lệnh pháo
binh Pháp ở Điện Biên Phủ bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự
sát.
Đợt
2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/l954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm
phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến
công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ
điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Tướng Nava hy vọng đến mùa
mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết
liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao
thông hào. Đặc biệt tại đồi Cl ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1
giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2 khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm
trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất
tinh thần cao độ.
Đợt
3: Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và
mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm
ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt,
quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm
kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống
sót đã phải đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm Sở chỉ huy của
địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của quân đội ta tung
bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó quân ta tiếp tục tiến công
phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch
đã bị bắt làm tù binh.
Sau
55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan
toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn
rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng
của địch. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến
dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển
hình nhất, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Theo nguồn:baocaobang.vn